0235.3867334

Đã 52 năm trôi qua, nhưng ngày ấy, cuộc chiến ác liệt 21 ngày đêm diễn ra tại vùng B Điện Bàn (Điện Thọ, Điện Phước, Điện An, Điện Hòa) giữa 10 ngàn quân Mỹ với một Tiểu đoàn Quân Giải phóng – Tiểu đoàn 3 (D3) Mặt trận 4 Quảng Đà vẫn luôn hiện lên trong tâm trí tôi.
Chị Vân Lan và đồng đội viếng mộ Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ . Ảnh: LÊ ANH DŨNG
Chị Vân Lan và đồng đội viếng mộ Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ . Ảnh: LÊ ANH DŨNG
 Là người trong cuộc (Cán bộ Văn thư Văn phòng Huyện ủy Điện Bàn), tôi thấy mình phải có trách nhiệm kể lại cuộc chiến đấu không cân sức nhưng hết sức kiên cường, anh dũng của D3 diễn ra từ ngày 20.11 - 10.12.1968 mà bây giờ nhắc lại thường được gọi là “Cuộc chiến 21 ngày đêm”.

Sáng 20.11.1968, chúng tôi (Cơ quan Văn phòng và Ban Tuyên huấn Huyện ủy Điện Bàn) đang trong tư thế chống địch càn quét thì được tin có một trung đoàn Mỹ từ đồn Bồ Bồ - Điện Tiến càn xuống xã Điện Thọ, các anh lãnh đạo lùi xuống thôn Châu Lâu, phân công tôi cùng chị Trần Thị Trung (cán bộ Ban Tuyên huấn) ở lại rúc công sự tránh địch. Sau một ngày rúc công sự, nghe tiếng súng nổ rất nhiều phía trên mặt đất, tối đến, chị em trồi lên thì gặp bộ đội D3 và được biết các anh đã chiến đấu suốt ngày để ghìm chân, không cho địch vào làng và kế hoạch sẽ di chuyển quân… Chúng tôi quyết định bám theo bộ đội. Cũng từ đó chúng tôi trở thành nhân chứng sống chia lửa với các anh D3 trong suốt cuộc chiến 21 ngày đêm.

Tối đó, D3 xuống thôn Nông Sơn xã Điện Phước, các cuộc giao tranh ác liệt tiếp tục diễn ra, rồi di chuyển dọc đường 100 vào ban đêm. Địch phát hiện, nổ súng chặn lại, nhiều đêm, anh em quyết tử mở đường máu để đi nhưng đều bất thành. Các đêm sau đó đơn vị tiếp tục di chuyển đến các thôn Hạ Nông, Châu Lâu, Đông Hồ, Làng Ngang và cuối cùng là thôn La Thọ, xã Điện Hòa.

Qua thông tin từ điện đài chỉ huy của ta và loa từ máy bay địch kêu gọi đầu hàng, bộ đội D3 biết đơn vị mình đã bị bao vây bởi quân Mỹ. Ban ngày, chúng dồn dập mở các cuộc tấn công vào khu vực đóng quân của D3 (có ngày lên đến 17 cuộc), kết hợp cả bộ binh, xe tăng, đại bác và máy bay dội bom. Nhưng hơn 200 cán bộ, chiến sĩ D3 vẫn kiên cường chống trả quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của địch, nhiều đợt xáp lá cà, ta thu được vũ khí địch để đánh địch… Cả đợt chống càn 21 ngày đêm máu lửa, với lực lượng không cân sức D3 đã tiêu diệt và làm bị thương hơn 1.000 tên địch, phá hủy hàng chục xe tăng, bắn rơi 15 máy bay, thu hơn 100 súng các loại. Nhưng quân ta cũng phải trả một cái giá rất đắt: Tiểu đoàn hy sinh gần hết - chỉ còn lại Thủ trưởng Khôi, Tiểu đoàn trưởng đi họp Mặt trận 4 và một ít anh em còn sống. (Sau này Mặt trận 4 tuyển quân xây dựng lại tiểu đoàn với bộ khung là những cán bộ, chiến sĩ còn lại).

Khi viết những dòng này, tim tôi như thắt lại, hình ảnh các anh chiến đấu ngã xuống trước mắt, cứ hiện hữu trong tôi. Hôm đó, khoảng 24.11.1968, đồng chí đại đội trưởng đứng trên miệng hầm chỉ huy trận đánh thì chiếc tàu rà của địch sà xuống bắn một quả rốc-két trúng ngay người, một nửa thân hình còn lại của anh ngã xuống… Cả hầm tôi đang trú dày đặc khói mù cay không ai thở nổi, chúng tôi phải lấy tay khoét đất đưa mũi xuống cố lấy hơi để thở. Cứ thế bom đạn suốt ngày dội xuống khu vực đóng quân.

Tối đến, địch co cụm ra xa hơn, anh em chúng tôi lên khỏi miệng hầm để xử lý gấp rút  thương vong trong ngày: số anh em hy sinh thì đưa xuống các căn hầm bị bom xới rồi lấy xẻng lấp đất lại (có hầm đến 7 liệt sĩ), những thương binh nặng thì khiêng xuống hầm (lúc có điều kiện thì kèm theo ít nước và  gói gạo rang), thương binh nhẹ thì di chuyển theo đơn vị… Tất cả diễn ra dưới làn đại bác và pháo sáng của địch. Cứ mỗi đêm đơn vị di chuyển đi nơi khác là để lại một số anh em thương binh, liệt sĩ như vậy đó!

Đêm 9.12.1968, chúng tôi cùng D3 di chuyển đến thôn La Thọ (nam sông La Thọ) xã Điện Hòa, anh em khẩn trương đào công sự chiến đấu, còn hai chị em chúng tôi trú trong hầm đại bác cùng các anh chỉ huy. Rạng sáng 10.12.1968, các mũi quân của địch đồng loạt tấn công siết chặt vòng vây, anh em D3 không nao núng, chiến đấu kiên cường, dũng cảm đẩy lùi nhiều đợt xe tăng, bộ binh của địch. Đến khoảng 15h, địch vừa ném bom, bắn pháo, vừa siết chặt vòng vây. Căn hầm đại bác mà chúng tôi đang trú bị trúng bom bay mất một nửa, nhiều anh em hy sinh không còn nguyên vẹn. Tôi và chị Trung bị thương nhẹ, cháy sém cả mặt mũi, tóc tai…

Trận chiến trở nên khốc liệt hơn khi hàng chục chiếc trực thăng (sâu đo) chở quân ồ ạt đổ xuống cánh đồng La Thọ siết chặt vòng vây, hai bên giáp chiến, súng nổ liên hồi. Các anh chỉ huy còn lại hét bên tai chúng tôi như một mệnh lệnh: “Chúng mày không được chết ở đây!”. Nói xong, các anh đẩy hai chị em tôi lên khỏi miệng hầm. Trên đầu là hai chiếc máy bay (tàu rà), quần đảo tìm mục tiêu, thấy chúng tôi như thấy miếng mồi ngon, chúng ném quả mù đỏ chỉ điểm cho những chiếc máy bay khác ném bom và bắn xối xả quanh chúng tôi, dưới chân cỏ lùng cao lút đầu, vướng không thể chạy nổi... Không còn con đường nào khác, chúng tôi chạy ra bờ sông La Thọ, quân địch đuổi theo sau… Tiếng súng trong xóm thưa dần… Băng qua hào giao thông, thấy nhiều anh em bị thương nặng nằm la liệt, chúng tôi chỉ kịp rúc nhanh vào bụi cỏ lùng dưới chân các bụi tre gần bờ sông. Tiếng quân Mỹ la hét ngày càng rõ, tiếng đạn M79 nổ ngay cạnh chỗ chúng tôi nằm. Hai chị em tôi mím chặt môi, rút chốt lựu đạn sẵn sàng bung ra sống chết với kẻ thù quyết không cho chúng bắt sống…

Chiều xuống, chúng tôi nghe tiếng lính Mỹ xa dần và nghe được tiếng máy bay hạ xuống cánh đồng, chắc là để hốt quân và số lính chết, bị thương đi. Chiến trường yên tĩnh lạ thường, cái yên tĩnh của sự chết chóc. Bình tâm lại,  tôi lắng nghe, và... tiếng anh em, đồng đội, đồng chí gọi tìm nhau… Tôi khóa chốt lựu đạn rồi chui ra khỏi bụi tre. Trước mắt là cảnh tượng quá thương tâm, rất nhiều chiến sĩ của ta bị địch bắn hy sinh ngay dưới hào giao thông… Các anh du kích, bộ đội còn sống đi tìm những người còn lại và giải quyết thương vong.

Bây giờ đã tròn 52 năm trôi qua  nhưng những hình ảnh các anh hy sinh trong trận chiến vẫn in đậm trong tâm trí tôi. Cứ đến ngày Thương binh - liệt sĩ và các ngày lễ lớn, tôi lại về Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn để thắp nén hương lòng tưởng nhớ anh em Tiểu đoàn 3 - các Anh hùng liệt sĩ đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc.

Có một điều luôn trăn trở, nhất là mỗi lần nghe chương trình “Nhắn tìm đồng đội” tôi càng day dứt hơn bởi đã chứng kiến các anh nằm lại những căn hầm ở các địa điểm đơn vị đã đi qua. Mong muốn cháy bỏng của tôi và các anh chị em đơn vị D3 là tại nơi các anh hy sinh nhiều nhất (bờ nam sông La Thọ xã Điện Hòa) có được một “Bia tưởng niệm liệt sĩ Tiểu đoàn 3 Mặt trận 4 - Quảng Đà” để anh chị em đơn vị, gia đình, bạn bè và bà con địa phương hương khói các anh trong những ngày lễ, tết, để các anh cảm thấy ấm lòng trên quê hương thứ hai của mình và biết rằng nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng mãi mãi ghi nhớ Tiểu đoàn 3 anh hùng.

______

(*) Tác giả nguyên là Ủy viên Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng, nguyên Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội TP.Đà Nẵng.

 NGUYỄN THỊ VÂN LAN

Sáng tác trong hơn 45 năm, Giá Viên toàn tập của danh nhân Phạm Phú Thứ là một tác phẩm đồ sộ, gồm các loại: thi, phú, tấu, sớ, luận, ký, thư, khải, tự, bạt, bi minh, hành thuật, văn cúng, đối liễn. Sách này có 27 quyển (gồm quyển thủ không đánh số và 26 quyển thơ văn được đánh số từ 1 đến 26) với 319.259 chữ khắc bản gỗ in.

Sách Phạm Phú Thứ Toàn tập do Nhà xuất bản Đà Nẵng in ấn.
Sách Phạm Phú Thứ Toàn tập do Nhà xuất bản Đà Nẵng in ấn.

TS. Phạm Phú Thứ (1821 – 1882), hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên, người xã Đông Bàn, huyện Diên Phước, nay là xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn. Cụ là người có tư chất thông minh, nổi tiếng học giỏi, đỗ đầu các khoa, làm quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn. Vua Tự Đức từng phê trên bức họa truyền thần của cụ bốn chữ: “Thương Sơn cao đệ” (Người học trò giỏi nhất của Thương Sơn Tùng Thiện Vương - chú ruột vua Tự Đức).

Phạm Phú Thứ có người cháu gọi bằng chú ruột, tên là Phạm Phú Lân. Ông tự là Sĩ Long, Đình Thơ (Thư), hiệu Thiếu Trúc. Mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ, Phạm Phú Lân đỗ tú tài năm Đinh Mão (1867) và năm sau đỗ cử nhân. Năm Đinh Tỵ (1876), ông làm quan Tư vụ bộ Binh, hàm tùng thất phẩm, sau đổi làm quan Biên tu ở Nội các (Văn phòng của hoàng đế). Đến năm Canh Thìn (1880), được bổ làm Tri phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Chức quan cuối cùng của ông là Biện lý các bộ kiêm chức Tham biện Viện Cơ mật với hàm Chánh tứ phẩm, Hồng lô tự khanh. Ông bị bệnh mất tại kinh thành Huế vào ngày 10 tháng 11 năm Đinh Dậu (1897), Thành Thái thứ 9. Thi hài được đưa về an táng tại quê nhà.

Thiếu Trúc Phạm Phú Lân được cụ Phạm Phú Thứ hết lòng dạy dỗ cả về chữ nghĩa và đạo đức, nên giỏi giang, lớn lên làm quan thanh bạch, được dân yêu, đồng liêu mến phục. Khâm phục tài năng của người chú ruột, Phạm Phú Lân âm thầm lưu giữ lại những bản nháp thơ, văn mà Phạm Phú Thứ vứt vào giỏ (sau khi đã chép tinh và gửi đi). Mỗi khi không ở cạnh chú, ông nhờ những người lính hầu cất giữ hộ. Công việc ấy kéo dài suốt mười năm trời. Sau khi “việc công thanh thản”, bản thảo đã tập hợp xong, Thiếu Trúc muốn in thành sách nhưng vì nhà nghèo, số tiền in sách lại lớn (trên dưới 4.000 quan), ông đem ý nguyện đó trình lên các quan lớn ở kinh và ở tỉnh Quảng Nam. Tất cả đều hoan nghênh.

Các quan công khanh nổi tiếng trong triều viết lời tựa. Tại Quảng Nam, các quan Đốc bộ Nguyễn Bút Phong, Tuần phủ Phan Uy Nhạc và Án sát Nguyễn Tiểu Cao đã có một nghĩa cử chưa có tiền lệ, đó là cùng liên danh ra bản Cáo bạch kêu gọi các bậc thân sĩ trong tỉnh hưởng ứng quyên góp tiền để khắc in thành sách. Cáo bạch ca ngợi: “Trúc Đường Phạm tướng công là một vị lãnh tụ của tỉnh nhà, sớm chiếm khoa cao, muộn lên chính khanh, gặp thời vua sáng, nước thịnh, ông đã đi khắp trong ngoài, chính sự văn chương đứng đầu một thời. Đến nay, các thân sĩ hạt nhà ca tụng trước cửa miệng. Thơ văn của ông trở thành điển hình chung của một nhà. Ví như sao sáng mây lành người được xem đều lấy làm khoái trá. Nhưng người chưa đọc được thì ngong ngóng mong chờ”. Cáo bạch không quên nhắc lại nghĩa cử của Phạm Phú Thứ, đó là khi còn sống dù lương bổng không nhiều, ông vẫn bỏ tiền in các sách hay, sách lạ như: Hàng hải kim châm, Khai mội yếu pháp, Vạn quốc công pháp… để phổ biến kiến thức cho thiên hạ. Trong khi đó, trước tác của mình có bao nhiêu cuốn thì ông lại không hề để ý đến. Cáo bạch nhấn mạnh: “Chúng tôi là người nhậm chức ở tỉnh Nam, mối tình sâu xa hoài cổ, phía Đông nhìn núi Hành Sơn cao ngất, phía Bắc trông núi Hải Vân chọc trời, chưa từng dứt mộng với con người “Giang Thụ Sào” ấy. Nếu các ngài cùng lòng yêu chuộng, không tiếc tiền thừa, để những cuốn sách này được in ấn, trọn vẹn điều tốt đẹp, đó cũng là ý nghĩ lấy vàng đúc Phạm Lãi trước kia vậy”. Ý Cáo bạch muốn nhắc lại câu chuyện đời Xuân Thu ở Trung Hoa: Sau khi giúp Việt vương Câu Tiễn đánh bại nước Ngô, khôi phục nghiệp cũ, trên đường khải hoàn, Phạm Lãi lén bỏ trốn đi ngao du, dinh thương vùng Ngũ hồ. Vua Câu Tiễn nhớ Phạm Lãi là người có công lớn, bèn sai lấy vàng đúc tượng kỷ niệm để đời!

Trong sách Lô Giang tiểu sử, Án sát Nguyễn Mại, người viết Cáo bạch, cho hay các thân hào ở đất Quảng đã “quyên trợ được hơn 800 đồng, giao cho anh Thiếu Trúc nhận thuê thợ khắc bản, in tập thi văn ấy đề là “Giá Viên thi văn toàn tập”. 

Ghi nhận công lao của Thiếu Trúc Phạm Phú Lân trong việc gìn giữ và tập hợp bản thảo để in sách Giá Viên toàn tập, Thượng thư bộ Công Nguyễn Thượng Phiên đánh giá: “Ngọc Bích trong núi Kinh Sơn được giá trong ở Liệt quốc (Đông Châu) là nhờ tay Biện Hòa, cũng như văn của cụ Phạm được lưu hành trong thiên hạ tới đời sau là nhờ tay của ông Thiếu Trúc vậy”. Khi Phạm Phú Lân mất, câu đối điếu của Nguyễn Thượng Hiền (con Nguyễn Thượng Phiên) có nhắc lại chuyện này: “Thập tải thành thơ, sự phúc như công bất đa kiến” (Hoàn thành pho sách trải mười năm, thờ chú như ông đời hiếm có). Còn người cháu của ông tên là Phạm Phú Viết (người đã dành trọn mười năm để dịch trọn bộ 27 quyển Giá Viên) nhận xét khá sâu sắc: “Có ông chú như tổ Trúc Đường mới có sách Giá Viên, mà nếu không có người cháu như bác Thiếu Trúc thì sách Giá Viên cũng chưa chắc được công bố”.

Để Giá Viên toàn tập đến tay độc giả, phải kể đến sự tham gia của nhiều nhân vật có tiếng đương thời: Hà Đình Nguyễn Thuật, Cúc Viên Trương Quang Đản, Kim Giang Nguyễn Trọng Hợp, Nhĩ Nam Nguyễn Thượng Phiên (giám định); Tiểu Cao Nguyễn Mại, Doãn Tân Trương Trọng Hữu (sắp xếp, phân loại thơ văn). Bên cạnh đó, còn có “đội ngũ” đông đảo con trai, con rể (Thượng thư bộ Binh Hồ Lệ, Tri phủ Anh Sơn Huỳnh Tuấn), các cháu thực hiện kiểm tra việc khắc in. Sách được in trong các năm 1895 - 1896 dưới triều vua Thành Thái.

Năm 2014, Nhà xuất bản Đà Nẵng in ấn cuốn Phạm Phú Thứ toàn tập dày 2.152 trang, giới thiệu trọn vẹn hai tác phẩm của Phạm Phú Thứ là Giá Viên toàn tập và Giá Viên biệt lục. Sinh thời, PGS-TS. Chương Thâu (nguyên Viện trưởng Viện Sử học), khi viết lời tựa cho cuốn Phạm Phú Thứ Toàn tập đã nhấn mạnh: “Trước hết, chúng ta phải cảm ơn các vị thức giả cùng thời cụ Phạm đã cùng với gia đình, con cháu và cả các bậc đường quan của tỉnh Quảng Nam với tấm lòng trọng thị kính ái Trúc Đường tiên sinh, ra sức thu thập, sắp xếp lại số di cảo của cụ, quyên tiền khắc bản in ấn để lưu giữ cho đời một khối lượng trước tác hết sức đồ sộ, phong phú. Nghĩa cử ấy, tấm lòng ấy đáng trân trọng biết bao để hôm nay chúng ta có nguyên bộ toàn tập với bản dịch ngót 2.000 trang chữ Hán. Phạm Phú Thứ Toàn tập có lẽ là một toàn tập thơ văn hiếm thấy trong lịch sử thư tịch nước nhà của một vị nho sĩ yêu nước”.

VÂN TRÌNH

Tại làng Châu Bí (nay là xã Điện Tiến, thị xã Điện Bàn) dưới chân núi Bồ Bồ, được bao bọc bởi hai con sông Bình Phước và sông Yên, có một dòng tộc đã sáng chế ra những thế võ độc đáo, xây dựng dòng tộc mình thành một dòng võ nổi tiếng, đó là võ phái Hồ Công.

 Võ sư Hồ Công Vinh múa roi biểu diễn trước sân nhà thờ tộc Hồ Công. Ảnh: vothuatcotruyen.vn
Võ sư Hồ Công Vinh múa roi biểu diễn trước sân nhà thờ tộc Hồ Công. Ảnh: vothuatcotruyen.vn

Phát tích

Tương truyền, người khai sáng ra võ phái này là tướng quân Hồ Công Sùng. Ông xuất thân từ làng Quỳnh Đôi, Nghệ An làm quan dưới triều nhà Mạc đến chức Đô chỉ huy sứ. Đầu thế kỷ 17, ông từ quan, dẫn ba người con trai là Hồ Công Vạn, Hồ Văn Bền (người thứ ba không biết tên) - đều là tướng quân - vào miền đất Châu Bí khai hoang lập làng cùng các vị tổ họ Dương, Trần, Nguyễn. Thuở ấy, đất này là rừng thiêng, nước độc, nhiều thú dữ, nên ông phải tìm cách tự vệ, và việc đánh rắn, đuổi cọp trên núi Cấm đã được ông đúc kết kinh nghiệm, sáng chế ra những thế võ độc đáo, có tên là võ Long Xà.

Những thế võ đó hầu hết được mô phỏng từ những thế trườn, quật, bắt mồi của loài rắn, phối hợp cương nhu làm cho thân pháp của người luyện võ dẻo dai, uyển chuyển như rồng cuộn trong mây. Khi ra đòn thấy nhẹ như bông nhưng thực chất thì đối phương đón đỡ nặng tựa ngàn cân. Đặc điểm võ nghệ của Hồ Công Sùng truyền lại là luồn lách nhập nội, đánh đòn ngắn, hiểm độc, có hiệu quả thực dụng, những đòn dài chỉ là đòn gió để luồn lách... Võ Long Xà không truyền cho người ngoại tộc, kể cả con gái họ Hồ cũng không được học những thế võ bí truyền ấy, chỉ có con cháu trai mới được đặc truyền. Mãi cho đến đầu thế kỷ 20, do yêu cầu của lịch sử, các võ sĩ Hồ Công phái hầu hết tham gia các phong trào yêu nước chống xâm lược, họ đã đem kỹ thuật chiến đấu bí truyền của môn phái ra huấn luyện cho nghĩa quân, từ đó luật “ngoại tộc bất truyền” mới được bãi bỏ.

Trong cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916 do hai chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo, tộc Hồ Châu Bí có nhiều người tham gia. Các ông Hồ Công Cung, Hồ Quảng Ngôn, Hồ Xuyến cùng với các ông Phan Phú Dinh và Phan Bá Thiều mở các lớp dạy võ tại Cấm Lớn huấn luyện nghĩa quân cho phong trào.

Những võ sư huyền thoại

Võ phái Hồ Công ở Châu Bí đã sản sinh ra nhiều võ sĩ tài ba, danh tiếng lừng lẫy, “bất khả chiến bại”. Dưới đây là một số truyền nhân nổi tiếng.

Võ sư Hồ Hương, truyền nhân đời thứ 7 của võ phái Hồ Công, rất giỏi thuật phi thân (khinh công). Hai tay xách hai giỏ đựng đầy đá, ông nhún mình một cái tức thì từ dưới đất vọt lên trên nóc nhà. Thời ấy, khi trong làng, xã có nhà bị cháy, ông tung người nhảy lên các mái nhà bên cạnh, giở tranh ném xuống đất để khỏi bị lửa cháy lan. Trong trường hợp khẩn cấp, ông có thể “bốc” từng người ném lên các mái nhà để họ cùng giở tranh với ông.

Ngoài việc rèn luyện tinh thông quyền pháp võ Long Xà, Hồ Hương còn học thêm võ thuật với một võ sư người Pháp tên là Big Bag. Sau gần một năm rèn luyện, Big Bag nói rằng đã dạy hết các thế võ cho Hồ Hương, chỉ còn dành lại một tuyệt chiêu để “phòng thân”. Nếu Hồ Hương đánh trúng ông 5 roi thì ông sẽ dạy nốt tuyệt chiêu này. Hồ Hương suy nghĩ, tìm tòi sáng chế ra 5 đường roi tuyệt kỹ công phu, khi giao đấu với thầy, 5 đường roi xuất ra một cách thần tốc, tài tình làm cho võ sư Big Bag không kịp trở tay phải nhận đủ 5 roi vào người.

Ông Hồ Hương cùng với các ông Đoàn Cử, Nguyễn Phổ lập ra Hội Võ và tổ chức đấu võ tại đình làng Châu Bí vào các dịp Tết Nguyên đán đầu thế kỷ 20, làm cho phong trào dạy võ, học võ ở đây lên rất cao.
Võ sư Hồ Điệp, vừa là học trò vừa là cháu gọi ông Hồ Hương bằng bác ruột, ông học võ với bác từ năm 7 tuổi. Ông là truyền nhân đời thứ 8 của võ phái, và đã đào tạo rất nhiều võ sĩ lừng danh trên các võ đài như: Hồ Cưu, Hồ Cập, Hồ Hiểu, Hồ Phước, Hồ Hồng Quang, Hồ Ôn, Hồ Dần... Trong những võ sĩ xuất sắc  có Hồ Cưu và Hồ Cập là 2 anh em ruột.

Võ sư Hồ Điệp là người tài ba, đức độ, ngoài 90 tuổi vẫn múa roi đi quyền. Năm 2001, ông bị ốm rồi qua đời, hưởng thọ 100 tuổi.

Võ sư Hồ Cưu sinh năm Quý Sửu (1913), mất năm Mậu Tý (1948), còn gọi là “Thắng Cưu”. Mỗi khi bước lên võ đài, đặt bút ký bản cam kết “chết không khiếu nại”, bao giờ ông cũng mỉm cười tự tin và cuối cùng luôn là người chiến thắng.

Từ năm 14 tuổi, ông theo học với chú ruột là võ sư Hồ Điệp gần 10 năm trên đỉnh Đồi Mồi. Ông nổi tiếng với biệt tài “hốt ngựa” túm đối phương ném xuống đài. Từ năm 1935 đến năm 1940, Hồ Cưu đã giành được các danh hiệu Vô địch Quảng Nam, Vô địch miền Trung, Vô địch miền Nam, và trong 2 năm 1937 - 1938, Hồ Cưu vô địch trận đài 5 xứ Đông Dương (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Cambodia và Lào) do Pháp tổ chức.

Danh tiếng Hồ Cưu đã làm cho nhiều môn phái khác ghen tỵ tìm cách ám hại nhưng lần nào ông cũng chiến thắng. Từ năm 1942 đến 1948, Hồ Cưu tham gia phong trào Việt Minh, làm công tác truyền bá chữ quốc ngữ và huấn luyện võ thuật cho đội Quyết Tử của tổng Định An. Hồ Cưu hy sinh năm 1948 trong một lần vượt sông Thu Bồn, hưởng dương 36 tuổi. Ông được đưa về an táng trên đỉnh Đồi Mồi.

Võ sư Hồ Cập, em ruột của Hồ Cưu cũng là một võ sĩ “bất khả chiến bại” trong nhiều năm. Ông cùng với Hồ Cưu đã từng so tài với các võ sĩ thượng thặng thời ấy như: Bửu Tiễn, Huỳnh Tiền, Minh Cảnh, Hồ Trọng Sơn, Đỗ Hy Sinh, Tôn Ngọc Lực và đoạt các chức vô địch Quảng Nam, Vô địch miền Trung, Vô địch miền Nam, vô địch Đông Dương từ năm 1938 đến 1941 ở hạng B (Hồ Cưu vô địch ở hạng A).
Võ sư Hồ Cập nổi tiếng với thế võ “Nghịch cước xuyên tâm” trong trận thắng võ sư Tôn Ngọc Lực của võ đoàn “Long Hổ Hội” tại Ái Nghĩa (Đại Lộc) vào cuối tháng tư năm 1960. Nghịch cước xuyên tâm là thế võ bí truyền của phái Long Xà được võ sư Hồ Cập sáng tạo bằng cách áp sát đối thủ và tung ra cú đá hiểm hóc; chưa có người nào hóa giải được nên Nghịch cước xuyên tâm còn có tên là “câu hồn cước”. Ông mất năm 1968.

Truyền nhân đời thứ 9

Võ sư Hồ Công Vinh là con của võ sư Hồ Điệp, truyền nhân đời thứ 9 của võ phái Hồ Công từ năm 2001 khi thân phụ qua đời. Ông sinh năm 1955, học võ với cha từ thuở nhỏ và thượng đài đấu võ lần đầu tiên vào năm 16 tuổi (1971) tại võ đài Ngô Văn Sở - Đà Nẵng. Năm 1981, Hồ Công Vinh mở võ đường Long Xà ở Châu Bí, ông đã đào tạo được nhiều võ sĩ xuất sắc như: Nguyễn Văn Trị (2 huy chương vàng huyện Điện Bàn),  Đỗ Thanh An (huy chương đồng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng), Trần Văn Đạt (2 huy chương bạc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng), Lê Văn Tâm (huy chương vàng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng), Hồ Công Thạch (con của võ sư Hồ Công Vinh, huy chương vàng Giải trẻ toàn quốc, huy chương bạc Giải vô địch quốc gia), Võ Thành Long (huy chương vàng Giải vô địch quốc gia 3 năm liền 2004 - 2006)...

Trong một cuộc hội thảo võ thuật tại Ninh Thuận, Hồ Công Vinh đã biểu diễn đòn “Nghịch cước xuyên tâm” của võ phái Long Xà khiến các võ sư vô cùng thán phục. Đây là một đòn khác thường rất sáng tạo vì nguyên tắc võ thuật là “roi liên, quyền nội”, chứ ít ai dùng cước trong khi áp sát đối thủ. Và tuyệt kỹ này được hội nghị chọn vào danh sách 28 thế đối kháng của võ thuật cổ truyền dân tộc. Võ sư Hồ Công Vinh đang tập hợp tất cả những quyền pháp võ Long Xà để viết lại thành cuốn sách “Võ Long Xà” lưu truyền hậu thế.

*
*              *

Hiện nay tại nghĩa trang tộc Hồ làng Châu Bí, xã Điện Tiến có đến 6 tấm bia mộ ghi danh hiệu “Võ sư” của tộc. Từ Quỳnh Đôi xứ Nghệ, võ tướng Hồ Công Sùng và các con đã chọn núi rừng Châu Bí làm quê hương thứ hai, khai sinh ra Võ phái Long Xà lưu truyền trong dòng tộc với những cao thủ võ lâm làm rạng rỡ cho nền võ học quê nhà. Sự nghiệp đó được người dân Quảng Nam ghi nhớ, đúng như 2 câu đối ở nhà thờ tộc Hồ Công:

“Hữu khai tất tiên, công đức tòng lai viễn hỉ,
Khắc xương quyết hậu, tử tôn phất thế dẫn chi”

(Khai cuộc dẫn đầu, công đức ngàn sau lưu dấu,
Hưng công mở mối, cháu con tiếp bước noi truyền - Nguyễn Thiếu Dũng dịch).

CHÂU YẾN LOAN

Đặt chân vào chợ Bà Hoa (bây giờ là chợ phường 11, quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh), những người con Quảng Nam đang sinh sống, học tập, lao động ở Sài Gòn như được trở về xứ chợ Quảng.

Tiểu thương lại chợ phần lớn là người gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ảnh: QUỐC THÔNG
Tiểu thương lại chợ phần lớn là người gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ảnh: QUỐC THÔNG

Được ví như một miền Trung thu nhỏ giữa lòng Sài Gòn, chợ Bà Hoa không chỉ bày bán nhiều mặt hàng nổi tiếng của vùng đất Quảng Nam mà còn là chốn dừng chân để những người con xa xứ tìm về ký ức của cố hương ngay trên đất khách quê người. Bởi vậy, người dân ở TP.Hồ Chí Minh khi được hỏi chợ xứ Quảng nằm đâu thì họ chỉ ngay đến chợ Bà Hoa, nằm sâu trong con hẻm đường Trần Mai Ninh, phường 11. Dù đã đổi tên thành chợ phường 11, nhưng mọi người vẫn hay gọi là chợ Bà Hoa bởi cái tên này nghe thân thuộc và gắn liền với lịch sử hình thành khu chợ. Theo cư dân địa phương, cái tên chợ Bà Hoa bắt nguồn từ một người phụ nữ tên Hoa. Vào năm 1954, bà di cư từ Bắc vào Nam, sinh sống tại vùng đất Bảy Hiền (nay thuộc quận Tân Bình). Cùng thời điểm ấy, người dân từ Quảng Nam cũng bắt đầu đổ xô vào đây làm ăn, mang theo nhiều nét văn hóa, ẩm thực xứ Quảng du nhập Sài Gòn. Càng ngày, số lượng dân cư cứ thế càng tăng lên, dần dần hình thành cộng đồng người Quảng lớn nhất Sài thành. Nhận thấy người Quảng ngày một đông hơn, bà Hoa quyết định mua một khu đất trũng xây chợ, sau đó cho người dân thuê lô kinh doanh buôn bán. Nhằm ghi nhớ công ơn người có công sáng lập khu chợ, người dân sinh sống tại đây đã dùng chính tên bà để đặt cho chợ.

Nhiều mặt hàng mang đậm bản sắc xứ Quảng được bày bán đa dạng. Ảnh: QUỐC THÔNG
Nhiều mặt hàng mang đậm bản sắc xứ Quảng được bày bán đa dạng. Ảnh: QUỐC THÔNG

Khác hẳn với cảnh tượng đông đúc thường ngày tại những khu chợ khác, đến chợ Bà Hoa, người mua không phải chen lấn mới mua được hàng. Dù chỉ có hơn 20 gian hàng, nhưng nhiều món ăn và sản vật nổi tiếng miền Trung vẫn được bày bán khá đầy đủ, đa dạng. Từ bánh tráng Đại Lộc, mỳ Quảng, cao lầu Hội An đến đường bát, bánh in, bánh thuẩn, bánh nổ, bánh tét, xôi đường… Nguyên liệu sản xuất phần lớn được đưa vào từ quê nhà. Ngoài ra, nhiều mặt hàng nông sản nổi tiếng khác như hành tỏi Lý Sơn, rau Trà Quế, hay cả nước mắm Nam Ô cũng được vận chuyển vào tận nơi để phục vụ “thượng đế”. Là tiểu thương buôn bán tại chợ, bà Đinh Thị Huệ (quê gốc huyện Duy Xuyên) chia sẻ, bà vào đây bán bánh ú, xôi đường đã được hơn 20 năm rồi. Mỗi ngày, bà bán được trung bình gần 100 cái bánh ú và 20 khay xôi đường. Khách hàng phần lớn là người Sài Gòn gốc Quảng.

Giữa cuộc sống xô bồ, hối hả tại vùng đất một thời được ví là “Hòn ngọc Viễn Đông”, nhiều người con xa xứ đang học tập, sinh sống và làm việc tại Sài Gòn tìm đến chợ Bà Hoa để hồi tưởng bao ký ức quê hương cho riêng mình. Chàng thanh niên tên Thịnh (22 tuổi), quê thị xã Điện Bàn là một trong số đó. Thịnh cho biết, bản thân vừa tốt nghiệp ngành xây dựng, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật TP.Hồ Chí Minh. Học 4 năm ở đây, mỗi lúc nhớ nhà, nhớ quê là Thịnh lại ghé khu chợ này. “Mỗi khi nhớ nhà là em hay tới đây mua mấy cái bánh ít, vài miếng xôi ngọt về ăn. Nhiều chợ gần nơi ở trọ cũng có bán những thứ đó, nhưng em chỉ thích mua tại chợ Bà Hoa này thôi. Tới chợ, có nhiều người nói tiếng Quảng như mình, cảm giác thật gần gũi, thân quen lắm anh à!”. Dạo một vòng quanh khu chợ, thưởng thức một vài món ngon xứ Quảng, ngồi nói chuyện bằng tiếng Quảng với những người đồng hương mà lòng chợt thấy nao nao, cảm giác thân quen như đang sống tại quê nhà. Con người xứ Quảng là vậy. Cần cù, chịu khó nhưng luôn tươi cười, tinh thần bao giờ cũng lạc quan. Dù sống ở nơi đâu, họ vẫn gìn giữ những nét văn hóa đặc sắc của riêng quê hương, xứ sở mình.

QUỐC THÔNG - CÔNG TÚ

QNO) - Tôi gọi là căn phòng Trường Sa, bởi ở căn phòng đó, vị tướng già cất giữ những kỷ vật khi đi làm nhiệm vụ ở Trường Sa thời trai trẻ; tất nhiên, ở căn phòng này còn khá nhiều kỷ vật khác.

Căn phòng đặc biệt đó là của Thiếu tướng Nguyễn Viết Hoàng (62 tuổi) - nguyên Phó Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 5, hiện đang sinh sống tại TP.Đà Nẵng.

Thiếu tướng Hoàng bên góc ảnh kỷ niệm chuyến thăm lại Trường Sa năm 2009. Ảnh: XUÂN THỌ
Thiếu tướng Hoàng bên góc ảnh kỷ niệm chuyến thăm lại Trường Sa năm 2009. Ảnh: XUÂN THỌ

Bốn năm ở Trường Sa

Năm 21 tuổi, chàng trai quê Điện Ngọc (thị xã Điện Bàn) hăng hái nhận lệnh đi Trường Sa, với nhiệm vụ tăng cường bộ binh trên đảo Trường Sa (lúc này ta chưa có lục quân), sau khi Trung Quốc gây nên cuộc hải chiến Gạc Ma ngày 14.3.1988 đầy tàn bạo. Ban đầu, chuyến đi được hoạch định kéo dài 3 năm, song, trong hoàn cảnh tương đối căng thẳng, lại thiếu quân, nên Thiếu tướng Hoàng ở lại thêm 1 năm nữa.

Trong quãng thời gian này, Thiếu tướng Hoàng chủ yếu ở đảo Phan Vinh (từ tháng 8.1988 - 5.1991) với vị trí đảo trưởng; và đảo Trường Sa Lớn (từ tháng 6.1991 - 6.1993) với vị trí lúc đầu là đảo phó, sau này là đảo trưởng. Ba nhiệm vụ chính của Thiếu tướng Hoàng cùng đồng đội lúc bấy giờ là bảo vệ chủ quyền biển đảo, huấn luyện và xây dựng đảo. “Bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhất là Trường Sa, là nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả của người chiến sĩ. Trong thời gian này, tình hình trên biển tương đối căng thẳng sau sự kiện 14.3 Trung Quốc đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa. Trung Quốc liên tục dùng tàu chiến, tàu cá ngụy trang để đi trinh sát các đảo, do đó, các đơn vị phải luôn trong tâm thế sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt, khi đối phương nổ súng, thì chúng ta mới có hành động tương ứng” - Thiếu tướng Hoàng cho hay.

Trong chuyến tăng cường bộ binh cho Trường Sa năm ấy từ Quân khu 5, Thiếu tướng Hoàng đi cùng 2 đồng đội, để huấn luyện cho bộ đội trên đảo. Lúc bấy giờ mỗi năm tàu đất liền ra đảo chỉ một lần vào mùa biển êm (tháng 4 - 5), nên yêu cầu cao tinh thần độc lập tác chiến, nhất là trong những trường hợp chưa có sự chi viện từ đất liền. Sau cùng, nhiệm vụ xây dựng đảo là khó khăn nhất, bởi lúc này thiếu thốn rất nhiều thứ như lương thực thực phẩm, phương tiện thông tin liên lạc, nước ngọt, sách báo… Tất cả những thứ này, chỉ nhận đúng một lần khi tàu từ đất liền ra, rồi tính toán sử dụng sao cho đủ trong vòng 1 năm. Ở bối cảnh này, Thiếu tướng Hoàng có nhiệm vụ xây dựng tư tưởng cho bộ đội trên đảo, để họ yên tâm vững tay súng.

Dù đã nghỉ hưu, nhưng Thiếu tướng Hoàng vẫn đảm nhiệm Hội trưởng Hội Khắc phục hậu quả bom mìn TP.Đà Nẵng. Ảnh: XUÂN THỌ
Dù đã nghỉ hưu, nhưng Thiếu tướng Hoàng vẫn đảm nhiệm Hội trưởng Hội Khắc phục hậu quả bom mìn TP.Đà Nẵng. Ảnh: XUÂN THỌ

Vượt khó xây dựng đảo

Cùng với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và công tác huấn luyện, xây dựng đảo cũng hết sức quan trọng. Lúc này trên đảo Trường Sa Lớn có 3 lực lượng, là bộ binh, trạm khí tượng thủy văn của Tổng cục Khí tượng và đơn vị xây dựng cầu cảng (của Bộ GT-VT) có nhiệm vụ tiếp cận các chuyến tàu chở hàng từ trong đất liền ra. Như trên đã đề cập, thì trong điều kiện thiếu thốn nên các chiến sĩ phải phân phối hợp lý, đủ dùng cho 1 năm. Chẳng hạn như gạo, một ngày, mỗi chiến sĩ chỉ được phép sử dụng 7 lạng. Còn nước ngọt, sau khi tắm bằng nước biển, mỗi chiến sĩ chỉ được “cấp” 1 lon nước ngọt (bằng kích thước lon sữa bò) đủ để làm ướt khăn, rồi lấy khăn lau sạch nước biển trên cơ thể. Lúc đầu chưa quen, da ai cũng bị ngứa ngáy, sưng, lở loét… đến tầm 1 tuần sau thì thích ứng được, cơ thể trở nên săn chắc.

Để có nguồn thức ăn tươi sống, sau những trận bão, các chiến sĩ ra nhặt lưới rách rồi vá lại để đánh cá. Vào mùa vích đẻ trứng, bộ đội trên đảo lấy trứng về để cải thiện bữa ăn. Tuy nhiên, do vỏ vích cấu tạo đặc biệt, nên không thể luộc chín mà chỉ có chiên. “Riêng trên đảo Trường Sa Lớn, lúc bấy giờ đã có thể trồng rau, chủ yếu là rau cải và rau muống. Tuy nhiên, mỗi lần trồng chỉ ăn được nửa tháng là cùng, vì diện tích ít, lại bị nước biển gây hại” - Thiếu tướng Hoàng kể. Trong hoàn cảnh như thế, tình đồng chí trở nên gắn kết, sẵn sàng chia sẻ nhau những ngọt bùi và cả cái nhớ nhà. Đó là nói vậy, chứ thật ra thời gian xây dựng đảo đã ngốn hết những nỗi niềm riêng của người lính đảo.

Thiếu tướng Hoàng cho hay, ở Trường Sa biển động hầu như quanh năm, và anh em luôn tất tả xây dựng đảo. Có những đảo xây dựng, đắp chân đảo xong, thì sóng lớn đánh sập. Khi ấy, những người lính phải dầm mình trong nước biển, lấy đất đá kè lại để giữ chân đảo, tránh bị sóng đánh trôi chân. Rồi đến khi biển lặng, mới dùng đất, đá và xi măng kè lại chân đảo. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đảo trước sóng biển, luôn đặt người lính ở tâm thế sẵn sàng, bất kể mưa to, bão tố. Nhiều khi, sau cơn vật lộn hàng tiếng đồng hồ dài thườn thượt, cơ thể ai nấy cũng rã rời. Nhưng khi thấy đảo vẹn toàn sau dông bão, thêm vững chãi giữa biển khơi, một cảm giác thiêng liêng chạy đầy cơ thể, xua tan bao khó nhọc, dấy lên niềm tự hào.

Thiếu tướng Hoàng với chiếc túi nhựa để bảo vệ đồ đạc khỏi bị ướt khi vận chuyển từ tàu vào đảo Trường Sa. Ảnh: XUÂN THỌ
Thiếu tướng Hoàng với chiếc túi nhựa để bảo vệ đồ đạc khỏi bị ướt khi vận chuyển từ tàu vào đảo Trường Sa. Ảnh: XUÂN THỌ

Góc kỷ vật

Trở về từ Trường Sa, Thiếu tướng Hoàng được đưa đi học thêm rồi công tác ở nhiều nơi trước khi về nghỉ hưu với chức vị Phó Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Trong những năm đời lính, rồi sĩ quan, Thiếu tướng Hoàng luôn lưu giữ những kỷ vật gắn liền với thời chinh chiến của mình. Để bây giờ, căn phòng ở tầng 2 của nhà mình, Thiếu tướng Hoàng có riêng một góc kỷ niệm. Với căn phòng này, vị tướng già mong muốn có không gian để sau này giáo dục con cháu; riêng tôi, khá ấn tượng với cách bài trí, sắp đặt. Trong số này, Thiếu tướng Hoàng quý nhất là một số kỷ vật ở Trường Sa như bao nhựa, vỏ ốc gai (mà ngư dân hay gọi là ốc u), chiếc võng…

Mở tủ lấy và đưa tôi xem cái bao nhựa, Thiếu tướng Hoàng cho biết nó dùng để chứa đồ đạc trước khi vận chuyển từ trên tàu vào đảo để tránh bị ướt. Còn riêng chiếc võng, vị tướng già cho hay, để có được chiếc võng này, hay chính xác để có được 1 chiếc võng, lính đảo phải mất hàng tháng trời để lượm lặt các sợ dây neo rồi về kết, đan lại. “Hồi đó Trường Sa tuy có máy phát điện bằng dầu diezel, nhưng chỉ để phục vụ chiến đấu. Nên mỗi khi trời nóng, lấy võng ra mắc dưới tán cây bàng vuông mà ngủ, mát lắm. Còn đối với vỏ ốc kỷ niệm, đó như nhắc nhớ một thời thiếu thốn, phải thường xuyên bắt ốc để có thịt tươi sống, cải thiện bữa ăn” - Thiếu tướng Hoàng giải thích.

Chiếc võng đan khi làm nhiệm vụ ở Trường Sa, giờ sợ bị hưng hỏng nên Thiếu tướng Hoàng cất giữ rất cẩn thận. Ảnh: XUÂN THỌ
Chiếc võng đan khi làm nhiệm vụ ở Trường Sa, giờ sợ bị hưng hỏng nên Thiếu tướng Hoàng cất giữ rất cẩn thận. Ảnh: XUÂN THỌ

Tất cả những kỷ vật Trường Sa, được Thiếu tướng Hoàng gói ghém, cất giữ cẩn thận vì sợ hư hỏng. Trên vách tường, vị tướng già dành hẳn không gian cho những tấm ảnh mà ông có chuyển trở lại Trường Sa công tác vào năm 2009. Chuyến đi ấy, trong trái tim vị Thiếu tướng luôn bùng cháy cảm xúc thiêng liêng, khi thấy những ngôi nhà của dân, những đứa trẻ chạy nhảy, ê a học bài. Rồi ông ghé thăm một ngôi nhà, ở đó có đôi vợ chồng trẻ và đứa con nhỏ quê ở Khánh Hòa, để lắng nghe những tâm sự giữ gìn biển đảo của họ; đôi mắt của những đứa bé long lanh đầy kiêu hãnh.

XUÂN THỌ

“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Những cô gái của vùng quê Điện Thắng (nay là 3 xã Điện Thắng, thuộc thị xã Điện Bàn) đi vào cuộc chiến đánh giặc giữ làng với biết bao gian khổ hy sinh. Nhưng mất mát lớn nhất không chỉ là cái chết mà còn ở phía chông chênh cuộc đời, những khao khát bình thường sâu lắng phải nén lòng quên đi khi mái tóc thanh xuân nhuộm mùi thuốc súng…

Những gương mặt nữ trong Đại hội xã đoàn Điện Thắng ngay sau ngày giải phóng.  (Ảnh tư liệu)
Những gương mặt nữ trong Đại hội xã đoàn Điện Thắng ngay sau ngày giải phóng. (Ảnh tư liệu)

Điện Thắng (gồm địa bàn của 3 xã Điện Thắng Bắc - Trung - Nam ngày nay) là vùng đất ven đô, giáp ranh giữa tỉnh Quảng Nam và TP.Đà Nẵng. Ở cửa ngõ phía nam đô thị lớn thứ hai của miền Nam trước năm 1975, Điện Thắng chịu nhiều đau thương khốc liệt khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều chọn Đà Nẵng làm nơi đầu tiên đổ bộ các đội quân viễn chinh xâm lược. Khi gót giày xâm lăng của ngoại bang đặt chân vào cửa Hàn thì không bao lâu chúng ập đến vùng đất này, gây nên cảnh đạn bom, khói lửa ngút trời. Xóm làng bị biến thành ấp chiến lược, thành khu dồn, trại tập trung, bóp nghẹt dân lành vào cảnh cá chậu chim lồng trong hàng rào thép gai như đâm nát cả trời chiều máu lệ. Đau thương và uất hận đã khiến người Điện Thắng phải đứng lên cầm súng đánh giặc. Tinh thần yêu nước, yêu quê hương, và truyền thống cách mạng đã bùng cháy thành ngọn lửa kháng chiến, từ đồng khởi phá kèm, tiến công và nổi dậy khắp các làng quê, áp sát bao vây căn cứ quân sự Đà Nẵng với thế trận “thiên la địa võng”, với căn cứ địa lòng dân kiên trung bám đất giữ làng, nuôi dưỡng chở che cho những người đánh giặc. Vì thế, Điện Thắng trở thành lũy thép, đặc biệt có hình ảnh Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Thứ và Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi nổi tiếng năm châu.

Đi qua các làng quê Điện Thắng, nghe kể lại nhiều câu chuyện về một thời tranh đấu, đâu cũng thấy hiện lên hình ảnh những cô gái can trường tuổi mới vừa dậy thì đã lên đường đi đánh giặc.

Có lẽ đầu tiên phải kể là chuyện tham gia “đội quân tóc dài” do các mẹ chị dẫn đầu đi đấu tranh với địch. Làng nào của Điện Thắng, từ Viêm Tây, Bồ Mưng, Thanh Quýt, An Tự, Thanh Tú, Phong Ngũ, Phong Lục đều có những người mẹ là vợ của “đảng viên can cứu” hoặc có chồng con đi tập kết, thoát ly. Những người mẹ ấy, trong cuộc đấu tranh với sự thanh lọc, thanh trừng của địch sau Hiệp định đình chiến đã dẫn theo con gái vừa đôi ba tuổi vào cuộc giằng co với giặc để bảo vệ xóm làng. Khi công cuộc chống Mỹ đi vào giai đoạn cam go, ác liệt, nhất là lúc quân viễn chinh của Mỹ đổ bộ vào miền Nam năm 1965, thì những bé gái sinh sau năm 1950 vừa thành thiếu nữ. Ký ức về những ngày theo mẹ lên khu dồn, nhìn thấy cảnh bắt bớ, tù tội, giết người man rợ trong đêm đen khi địch thực hiện Luật 10/59 vẫn còn ám ảnh nhiều cô gái quê. Cho nên khi được tổ chức dẫn đường, họ lập tức tham gia làm giao liên, đào hầm bí mật để che giấu và tiếp tế cho những cán bộ nằm vùng, các anh chị du kích. Đặc biệt, họ tham gia “đội quân tóc dài”, đấu tranh với địch, chống cày ủi xóm làng, chống phi pháo giết người vô tội.

Nổi bật như cuộc đấu tranh vào tháng 7.1965 còn lưu trong sử sách. Câu chuyện bắt đầu khi chị Nguyễn Thị Diệp, người Bồ Mưng, đi gặt lúa ở Gò Quán thì bị hai tên lính địch thách nhau chọn chị làm bia để bắn. Hậu quả là chúng bắn chết chị lúc 4 giờ chiều. Được tin cấp báo của đồng bào, Ban Chấp hành Đảng ủy xã Điện Thắng hội ý nhanh và quyết định vận động nhân dân đứng lên đấu tranh. Ngay sáng hôm sau, đồng chí Trần Hân - Bí thư Đảng ủy xã đến gia đình chị Nguyễn Thị Diệp đề nghị cho đem thi hài chị lên quận Điện Bàn để quần chúng đấu tranh chống địch vô cớ bắn giết đồng bào. Đảng ủy cũng phân công chị Nguyễn Thị Chung làm một mũi trực tiếp trong cuộc đấu tranh này. Công tác tổ chức cuộc đấu tranh được tính toán chu đáo, phân công người hô khẩu hiệu, người đứng ra binh vận. Chị Nguyễn Thị Chung được giao đóng vai chị ruột nạn nhân.

Cuộc đấu tranh diễn ra với đoàn biểu tình tuần hành. Lực lượng tham gia phần đông là chị em phụ nữ, thanh thiếu niên, ông già, bà lão… với tổng số hơn 500 người từ Điện Thắng kéo lên quận Điện Bàn.  Đoàn biểu tình vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu “Đả đảo bọn ác ôn!”, “Hoan hô anh em binh sĩ đồng tình ủng hộ nhân dân!”. Khi vào đến Vĩnh Điện, đoàn biểu tình đông thêm vì được nhân dân dọc hai bên đường đồng tình ủng hộ. Chẳng mấy chốc, đoàn người ùa vào quận đường Điện Bàn. Chị Nguyễn Thị Chung, trong vai chị ruột của chị Nguyễn Thị Diệp, vừa khóc lóc, kể lể thảm thương, vừa đập bàn làm việc của bọn địch la hét dữ dội. Đồng thời chị kêu gọi đồng bào lên án bọn giết người. Trước khí thế bừng bừng phẫn nộ của quần chúng, bọn địch đành phải nhượng bộ, cam kết bồi thường cho nạn nhân 50.000 đồng và 300kg gạo, hứa từ nay trở đi không bắn giết bừa bãi dân lành. Chúng còn giả nhân giả nghĩa đề nghị để chúng điều xe chở thi thể nạn nhân về Điện Thắng nhưng đồng bào kiên quyết không chịu. Lúc này, bà con đã bao quanh thi hài chị Nguyễn Thị Diệp, vừa đưa về vừa tranh thủ thời gian hô vang khẩu hiệu trên đường đi “Đả đảo bọn giết người!”.

Cuộc đấu tranh chính trị vào tháng 7.1965 kết thúc thắng lợi đem lại niềm tin cho quần chúng nhân dân. Trước đây, khi địch cho xe cán lúa, phá mồ mả, bà con cũng nhiều lần nổi lên đấu tranh chống lại hành động của địch. Nhưng, đó là những cuộc đấu tranh có quy mô nhỏ, ảnh hưởng không lớn. Còn cuộc biểu tình đấu tranh lần này thực sự là cuộc biểu dương sức mạnh của quần chúng, của đội quân tóc dài xã Điện Thắng.


NGUYỄN ĐIỆN NAM

(Ghi theo lời kể của bà Nguyễn Thị Tân, Nguyễn Thị Cùng - cán bộ đoàn, du kích xã Điện Thắng thời kháng chiến chống Mỹ)
------------------
Kỳ 2:  Nữ du kích Bồ Mưng

Ông cười lớn, âm vực rộng và trong, rõ là có nội lực cao ở người già tuổi đã 80, còn nói như thiên hạ hay bàn về lòng người, thì đó là tiếng cười của hỷ xả, lại thêm cái bắt tay như thể tôi đang chạm vào thép, rõ là công phu không phải chơi.

Ông Nguyễn Vân.Ảnh: TRUNG VIỆT
Ông Nguyễn Vân.Ảnh: TRUNG VIỆT

1. Lối vào nhà hẹp ké, nhưng bất ngờ nở ra bởi gian tiếp khách đủ rộng và ấm cái nhìn khiêm cung nhưng không thiếu cẩn nghiêm của chủ. Không rào đón, vào chuyện liền, ông là lớp đầu tiên của môn võ Thái Cực Đạo khi nó được dạy tại Việt Nam, rồi khi được phong huyền đai đệ tam đẳng quốc tế, ông bắt đầu dạy võ,  hết Huế, Nha Trang đến Sài Gòn, kéo dài từ 1963 đến 1975. Sau đó, ông về quê  Vĩnh Điện dạy đến 1979 thì nghỉ. “Sao chú không dạy nữa?”. Ông trầm ngâm: “Hồi đó cực lắm, sáng sớm chở hàng cho vợ bán, cả ngày kéo xe bò, sức đâu mà dạy con. Chú có học Aikido, Judo rồi Thiếu Lâm nữa, nhưng rồi cũng thôi. Nhờ được dạy huyệt đạo từ Thiếu Lâm mà có một thời kỳ chú đi châm cứu. Nhớ hồi đó có ông Huỳnh Thảng viết văn, nằm ở bệnh viện C, bệnh nặng lắm rồi, người quen nói với chú ra coi thử, đạp xe ra, chú nói 10 ngày nữa ông sẽ đi lại được nếu tôi châm, sau 8 ngày thì ổng đi bộ vào bệnh viện, người ta trố mắt. Nhưng ở đời làm thầy có số con à, có ông thầy nói với chú, là 2 năm 7 tháng nữa, ông sẽ bỏ nghề thuốc. Một bữa, có bà đó bị thần kinh tọa nhờ châm, chú lấy ba ngàn đồng, bả la mắc, lên bệnh viện, họ đòi 5 ngàn/lần, lại chạy xuống nói nhờ ông, chú lắc đầu  thôi thôi tôi nghỉ từ đây, không hiểu răng lại ưng nghỉ, có đứa nghe rứa liền chạy tới xin bộ đồ nghề, cho liền. Ngồi tính lại bữa ông thầy nói, đúng y 2 năm 7 tháng...”.   

Bỏ làm thầy võ lẫn thầy thuốc, nhưng trời xui và bắt ông không từ được cái nghiệp vung tay múa chân. Năm 1987, lớp dưỡng sinh đầu tiên được dạy, thế là ông theo học, và từ đây, nó đeo tới giờ không bỏ được. “Trước dưỡng sinh, chú cũng tổ chức cho bà con tập chạy, khi dưỡng sinh mở ra ngay sân trụ sở ủy ban thị trấn Vĩnh Điện, cứ sáng sớm là mình đập cửa kêu bà con dậy tập…”. Ông lý giải rằng cái kiểu “vác tù và hàng tổng này” có lý do đơn giản là mình biết, bày cho bà con có sức khỏe, tiền nay làm không có thì sẽ có, chứ sức khỏe là thứ khó tìm, rồi tập để mấy đứa con bắt chước theo. Ông lại cười lớn rằng, ba thằng con trai không đứa mô theo nghiệp võ. “Bà vợ bị cao huyết áp, hay nói đau đầu, mình bấm huyệt là hết, biểu là đi tập thì bả không đi, ừ đúng đó, bụt chùa nhà không thiêng”. Những lớp dưỡng sinh của ông dạy lúc đầu tự phát, sau đó lan rộng. “Lịch là ri, sáng chú hướng dẫn cho lớp ở thị trấn, xong, chở hàng cho bà vợ, về xách xe đạp xuống mấy xã tập tới trưa, chiều lại dạy ở thị trấn, rồi dọn hàng cho vợ”. Có người thống kê là đến năm 2016, đã có 62 thôn của 8 xã có lớp dưỡng sinh do ông đứng dạy, từ cái thời cọc cạch đạp xe đến giờ rong ruổi xe máy. Dạy không công, không lấy một hào, cơm nhà gạo chợ, mải miết mà đi. Tôi buột miệng rằng, làm kiểu đó, vợ có nhăn không, ông gật rằng cũng có chứ, rồi cũng không ít người ganh ghét dệt chuyện này nọ, nhưng mình làm ngay thẳng, chẳng sợ chi. “Thiệt với con, chú làm theo tinh thần võ sĩ đạo, đừng để bụng, cũng nhờ trời cho cái sức”.

2. Dưỡng sinh bây giờ rộ khắp nơi. Đã qua rồi thời ăn uống cực khổ, những tưởng ai ai cũng khỏe cũng mạnh, nhưng ngờ đâu chưa bao giờ bệnh tật nhiều, lạ và nguy hiểm như bây giờ, không phân biệt thành phần, lứa tuổi, bất luận bệnh gì  cũng có thể… ăn giỗ trên cái xác của mình. Cứ vào bệnh viện mà coi. Ngó mà ngán, nhưng thể dục thì răng? Cái câu “trẻ uống trà, già tập thể dục” vẫn còn nguyên đó, mà  trẻ cũng có cái lý của nó, là giờ nhiều thú vui hơn thể dục, chỉ có đứa nào ham lắm mới theo. Nhưng tôi để ý rồi, nhiều ông khi một mình thì tập tành này nọ, đùng có vợ là đổ ra lười biếng, bởi công việc, trách nhiệm, bia bọt bao vây, bụng vượt mặt, “ngày xưa bụng bự thì sang/ngày nay bụng bự không xơ gan cũng tiểu đường”, đến khi bác sĩ nói tập kiêng cữ, thể dục đi nếu không vợ chê trời thích con đau đớn, thế là ục ịch đi tập. Chỉ có người già là siêng. Xương khớp đau nhức, huyết áp tim mạch, kêu réo, rồi muốn khỏe đến sống thêm vài năm nữa, tới chỗ đó người già với nhau lại dễ chuyện trò làm vui. Vì thế, ngó các lớp dưỡng sinh đâu  đâu cũng thấy người già, còn lớp yoga, gym thì thấy đàn bà con gái là đông bởi sợ nhan sắc thân thể bị chê ỏng eo… Tôi bắt thêm chuyện rằng, tôi thấy dưỡng sinh rồi, một dạng của Thái Cực Quyền nhưng dễ hơn, là tập thể dục thôi, chứ không khó khăn công phu như võ. Ông lắc đầu rằng, không phải đâu, khó đấy, đối tượng học dưỡng sinh là người già, dạy không phải cào bằng, mùa nắng dạy ra sao, mưa dạy thế nào, rồi quan sát sức khỏe họ, đã có không ít người dạy mà chú nhìn sắc mặt, biết ngay nếu tiếp tục họ sẽ đổ bệnh gay lắm chứ chơi.

Hàng chục lớp dưỡng sinh đã được ông Vân tận tụy dạy.
Hàng chục lớp dưỡng sinh đã được ông Vân tận tụy dạy.

Sau lưng tôi, trên tường cao là bằng khen của Trung ương Hội Người cao tuổi. “Cấp tỉnh nhiều lắm, treo vài cái cho vui thôi, dạy cũng để an vui mà…”. Nói thì dễ, nhưng làm khó thay. Thời buổi này có mấy ai ròng rã như ông. Người ta hiện diện ở đời có nhiều cách để lưu tên mình, thì ông có cách của ông, dẫu ông làm vậy cũng chẳng cần ai phải nhớ. Anh bạn lên tiếng: “Ở thị trấn ni, chú là người giàu nhất đó, con cái chú buôn bán như người ta nhưng cách mua bán, ứng xử lại khác người ta…”. Ông gật. Trên tường là những điều răn về làm giàu, về tâm đức, hẳn là để ông dạy con. Cái sự giàu vừa nói đến, chắc chắn là bề bộn của lòng nhân và sự tận tụy không giới hạn với cộng đồng. “Khi chú học võ, ông thầy có dạy câu “nhứt kích sinh tử quyết định”, đánh một cái là chết ngay, chứ đừng đánh bị thương. Tâm lý dân Việt mình là không ai chịu nhục, nhưng nhẫn nhục một chút cho xong chuyện đi, ngẫm lại là tinh thần võ sĩ đạo. Cốt tử câu nói trên là khuyên người học võ chớ có ra tay giết người, mình mang họa ngay, từ đó nó dạy rộng cái nghĩa sống hơn, là đừng gây gổ sân si làm chi, học võ nên chú biết, nhiều khi dẫu vô tình đụng huyệt đạo là đủ gây chết người… Nên, sống là mang lại niềm vui, đó là cái lý dễ chịu nhất”. Và ông đã hành hiệp như thế. Sức khỏe mang lại từ những lớp học của ông, tự mỗi người biết…

3. Ở đời, có thứ học được, có thứ do căn tính, chẳng biết ở ông là từ đâu mà có, nhưng ngó bộ dạng ông như thầy giáo già ở làng, vui lắm. “Rồi đến lúc nào đó, chú sẽ yếu đi, những lớp học thì sao?”. “Đó là điều chú lo nhất, chừng đó năm đứng dạy mà không tìm được người thay thế. Lý do là không ai chịu khó học, dạy võ cho trẻ thì dễ, nếu nó tập sai, mình sửa liền, nó không chịu sửa, tập sẽ dính đòn ngay, chứ người già đâu phải dễ, họ khó chịu lắm, tập mà không dám nói tiếng nặng, rồi lắm người học không tới đâu mà đòi làm thầy…”. Tôi nhớ đến những lớp học võ trong xóm vắng, những võ đường giờ đã phủ bụi, hỏi thì nhận được cái lắc đầu là chủ nhân đã mỏi mệt áo cơm, rồi tìm đệ tử chân truyền không dễ, và đây chính là lý do để tinh hoa võ thuật lụi tàn, bởi tôi nhớ một võ sư già nói với tôi rằng, không ai giấu nghề đâu, nhưng tìm người không ra vì học trò không đủ đức, rồi có đức mà thiếu tài, cũng đòn đánh đó, nhưng dạy thì nó không học được, vì thế thầy mang xuống tuyền đài những tuyệt kỹ trong nỗi xót xa.

Ông thầy dạy dưỡng sinh Nguyễn Vân ở khối phố 7, phường Vĩnh Điện, thị xã Điện Bàn cũng mang tâm trạng đó, khi đọc trong mắt ông nỗi thao thức không có chút hy vọng của một người như chèo đò đi ngược giữa buổi bao tham luyến ngập tràn. Càng ngày càng thấy vắng dần những điều hay, khi ngó lên tường có hai câu ông treo: “không có hương hoa nào bay ngược chiều gió thổi/ Chỉ có hương người bay ngược gió muôn phương”…

TRUNG VIỆT

Làng Cẩm Sa, nay là khối phố Cẩm Sa, phường Điện Nam Bắc, thị xã Điện Bàn. Theo tự dạng của chữ Hán thì Cẩm Sa (錦 紗) có nghĩa là lụa đẹp lộng lẫy (như gấm). Đây là một trong những làng “tiền hiền” của Quảng Nam.

Mô hình nhà thờ tộc Lê Cẩm Sa.
Mô hình nhà thờ tộc Lê Cẩm Sa.

Lịch sử làng

TS.Huỳnh Công Bá trong “Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở bắc Quảng Nam” cho rằng, thủy tổ của tộc Phạm làng Cẩm Sa là lớp lưu dân đầu tiên trong số những người “Bắc địa tùng vương” đến khai khẩn và lập ra làng Cẩm Sa sau cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1471. Nhưng sau này tộc Phạm cho biết thủy tổ của họ vốn là người làng Kiết Đặc, huyện Chí Linh (nay là xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) mãi đến năm 1558 mới theo Nguyễn Hoàng vào Nam. Gia phả tộc Lê làng Cẩm Sa cũng cho biết thủy tổ của dòng tộc này là ngài Lê Niệm Đại Lang đã được bố trí ở lại khai khẩn vùng Cẩm Sa sau cuộc Nam chinh của Lê Thánh Tông. (Thực ra ngài có tên là Lê Niệm. Chữ Đại Lang đi kèm chỉ là sự tôn vinh hoặc  tước vị mà thôi). Nhưng theo Hồ Trung Tú  trong “Có 500 năm như thế”, thì làng được thành lập sớm hơn, từ năm 1402. Một người bác ruột của Hồ Quý Ly có quê ở huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa) vào Nam theo cuộc vận động di cư vào Nam lập ấp dưới thời Hồ Hán Thương (1402-1407) đã đến định cư tại Cẩm Sa và trở thành thỉ tổ tộc Hồ và tiền hiền của làng. Cũng theo Hồ Trung Tú,  đến năm 2002, tộc Hồ Cẩm Sa đã truyền đến đời thứ 26 với bình quân 24 năm/đời. Điều này hoàn toàn phù hợp.

Như vậy, làng Cẩm Sa vốn là một trạm quốc gia nên các đợt di cư vào Nam đều phải đi qua và nhiều tộc họ đã dừng lại ở đây theo những mốc lịch sử quan trọng: Hồ (1402), Lê (1471), Phạm (1558)…

Lúc đầu làng có tên là Kim Sa (cát vàng), điều này được thể hiện ở sách Ô châu cận lục của Dương Văn An (1553) trong mục giới thiệu 66 làng thuộc huyện Điện Bàn (phủ Triệu Phong). Sau này vì kỵ húy tên thân phụ của Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim nên mới đổi lại, có lẽ là vào năm 1604, khi huyện Điện Bàn được tách khỏi phủ Triệu Phòng nâng lên thành phủ và nhập vào dinh Quảng Nam. Đợt này nhiều làng của Điện Bàn cho tên đầu bằng chữ Kim (Kim Lũ, Kim Toại, Kim Nê, Kim Quất… cũng được đổi thành Cẩm hoặc Thanh  (Cẩm Lũ, Cẩm Toại, Cẩm Nê, Thanh Quýt…).

Dưới thời chúa Nguyễn, làng Cẩm Sa là một nhà trạm quan trọng trên đường nối liền giữa thủ phủ nhà Chúa ở Thuận Hóa đến dinh trấn Thanh Chiêm. Trong “Phủ biên tạp lục” Lê Quý Đôn viết: “Đường sá từ trấn Thuận Hóa vào Quảng Nam, nhật trình đi bộ từ quán Lồn Voi đến quán Trà nửa ngày. Quán Trà đi tối đến Tuần Ải (Hải Vân quan sau này - LT). Tuần Ải đến quán Sảng nửa ngày, quán Sảng đi tối đến quán Thanh Khê. Quán Thanh Khê đi đến quán Cẩm Sa nửa ngày; quán Cẩm Sa đi tối đến dinh Quảng Nam…” (Nxb Khoa học, 1964, trang 120). Cũng tác phẩm này cho biết làng Cẩm Sa thuộc tổng Hà Khúc, huyện Hòa Vang. Sang thời nhà Nguyễn, theo Địa bạ Gia Long (1812-1818) làng Cẩm Sa thuộc tổng Thanh Quýt, huyện Diên Khánh (Diên Phước), phủ Điện Bàn.

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Cẩm Sa vẫn giữ nguyên tên cho đến năm 1948 mới thuộc xã Điện Nam. Thời kỳ 1954-1975, Cẩm Sa là một thôn của xã Thanh Minh, quận Điện Bàn. Từ 1975-2005, làng thuộc xã Điện Nam. Sau ngày 7.7.2005 là thôn Cẩm Sa, xã Điện Nam Bắc.

Ngôi làng của những điều đặc biệt

Ngày nay Cẩm Sa nổi tiếng là “ngôi làng anh hùng”, đã sản sinh 5 vị tướng, 3 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng trước đây nói đến Cẩm Sa người ta nghĩ ngay đến những trận giao tranh ác liệt giữa các thế lực do nằm trên đường Bắc - Nam và nhất là vị đại khoa duy nhất giàu tài năng và đức hạnh của làng nhưng lại… yểu mệnh.

Về các trận giao tranh, ác liệt nhất có lẽ là lần chạm trán đầu tiên giữa quân Trịnh và quân Tây Sơn vào ngày 24.4.1777.  Sách “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang viết: “Ngày 24, Hoàng Đình Thể đến Cẩm Sa, Nguyễn Văn Nhạc sai Tập Đình làm Tiên phong, Lý Tài làm Trung quân đem 600 quân hơn 30 thớt voi chia làm 5 chi đón đánh. Quân Tây Sơn, đội khăn đỏ, mình trần xông vào đánh bừa, không đợi thành trận. Trước kia quân Tây Sơn đánh thắng quân Nguyễn là nhờ cách ấy. Không ngờ quân Trịnh mặc dầu hỗn đấu, vẫn nghiêm trận không động. Hoàng Đình Thể nhắm phía thúc voi tiến đánh. Quân Tây Sơn hoặc bị giết hoặc bị voi giày, chết không xiết kể, bèn vỡ trận… Hoàng Đình Thể sai quân đuổi theo. Tây Sơn thủy quân thì do cửa Đại chiêm ra biển, bộ binh thì nhắm Quảng Ngãi mà chạy. Quân Trịnh bắt được quân lính, quân nhu khí giới rất nhiều, đuổi theo đến Thanh Hà rồi chiếm dinh Quảng Nam…” (Nxb Khai Trí, 1967, trang 279).

Dưới thời phong kiến, Cẩm Sa không phải là ngôi làng văn vật của Điện Bàn. Suốt 100 năm khoa cử dưới triều Nguyễn làng chỉ có duy nhất một đại khoa, đó là phó bảng Ngô Lý, một trong hai Phó bảng của khoa Ngũ phụng tề phi Quảng Nam (1898), nhưng ông lại là người… yểu mệnh.

Chuyện kể, Ngô Lý vốn quê ở làng Mông Lĩnh, huyện Quế Sơn. Nhà nghèo, cha mất sớm nên phải đến ngụ cư ở Cẩm Sa. Nhưng ông là người rất chăm học và thông minh, là học trò cưng của cụ Hoàng giáp Phạm Như Xương, được thầy tận tình dạy dỗ nhưng rất tiếc nhà thầy cũng rất nghèo không giúp gì được về vật chất cho trò. Hàng ngày Ngô Lý phải phụ giúp mẹ làm bánh bèo để đem xuống Hội An bán. Xay bột xong, Ngô Lý lợi dụng ánh sáng của bếp lửa hấp bánh để đọc sách, học bài. Cảm thương hoàn cảnh của ông, một cô gái hàng xóm nhà khá giả hơn, hàng ngày sang lấy nước vo gạo và rửa cối xay bột đem về cho heo đã lén cha mẹ đem cơm cho ông bồi dưỡng.

Ngày vinh quy bái tổ, các làng khác theo lệnh của tổng đốc có quan viên chức sắc của làng mang chiêng trống võng lọng ra tận Hải Vân để rước. Ngô Lý chỉ được làng rước bằng… trống thủng, chiêng bể vì là dân… ngụ cư! Tủi thân nên khi đám rước về đến bờ sông chuẩn bị sang đò để lên dự tiệc chiêu đãi của Tổng đốc Đào Tấn ở Khán Hoa đình bên bờ sông Vĩnh Điện, Ngô Lý đã bỏ bữa tiệc đón rước chạy bộ một mạch về làng, lạy tạ mẹ rồi chạy sang làng Ngân Câu bên cạnh, tạ ơn thầy. Cảm kích trước lòng hiếu đễ của ông nên sau này cụ Tổng đốc Đào Tấn không bắt lỗi ông về tội vắng mặt trong bữa tiệc đón rước. Sau khi thi đỗ, mặc dù được nhiều gia đình giàu có gạ gả con gái cho, nhưng Ngô Lý đều từ chối để xin lấy người “phiếu mẫu”… xách nước cơm ngày nào.

Rất tiếc, làm quan được một năm (Hành tẩu bộ Lại, Tri huyện Thạch Hà) thì Ngô Lý bị lâm bệnh hiểm nghèo qua đời. Đời sau vẫn nhắc mãi tấm gương hiếu học, đạo nghĩa của phó bảng Ngô Lý.

LÊ THÍ

Làng Phong Thử (nay là thôn Phong Thử, xã Điện Thọ, thị xã Điện Bàn) là quê hương của nhà Duy tân Phan Thúc Duyện. Ông đã góp công rất lớn để xây dựng Phong Thử thành ngôi làng Duy tân tiêu biểu và kéo dài nhất của phong trào.

Chợ Phong Thử ngày trước.
Chợ Phong Thử ngày trước.

Lịch sử làng

TS.Huỳnh Công Bá trong “Công cuộc khai khẩn và phát triển làng xã ở bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 18” cho rằng, làng Phong Thử được thành lập do những người tộc Phan di cư từ Thanh Hóa vào từ nửa đầu thế kỷ  16. Theo ông: “Nhiều tư liệu địa phương cho thấy có những lớp lưu dân đến bắc Quảng Nam hồi nửa đầu thế kỷ 16, chẳng hạn thủy tổ của các tộc Phan “quang tiền”, Phan “minh đức”, Phan “phụng tư”, Nguyễn “quang khánh”, Trần “đạt tôn”, Nguyễn Quy hậu ở làng Phong Thử”. Võ Đạt trong “Phan Thúc Duyện trong phong trào Duy tân Việt Nam” dựa vào gia phả tộc Phan cho biết cụ thể hơn: “Đức Thỉ tổ tộc Phan Minh húy là Đài, một bậc danh sĩ nguyên quán thừa tuyên Thánh Hoa cùng phu nhân  họ Lê tự là Bạn vượt Linh Giang (sông Gianh) thiên cư vào Nam trong đời vua Trang Tông, nhằm vào năm 1537…”.

Nhưng thực tế có lẽ làng Phong Thử được thành lập sớm hơn, ít nhất là từ 1471, do những chiến sĩ “Bắc địa tùng vương” nhưng đến nay không còn chứng cứ. Năm 1553, “Ô châu cận lục” của Dương Văn An đã cho biết Hoa Thử  (Phong Thử sau này) là một trong 66 làng của huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong và với nét đặc biệt: “Mưa Dã Lê làm tươi tắn lụa là, gió Hoa Thử thơm tho bánh trái”. Vào thời đó, 16 năm (1537-1553) chưa đủ để một vùng “vẫn còn hoang vắng” thành một làng có xã hiệu hẳn hoi và phát triển đến mức “gió cũng thơm tho mùi bánh trái”. Nhưng tạm thời chấp nhận mốc 1537 vậy.

Lúc đầu làng có tên là Hoa Thử, sau mới đổi lại là Phong Thử nhưng không rõ từ năm nào. Võ Đạt cho là vào thời Bảo Đại và trước đó làng có tên là Ba Thử. Tên Ba Thử là có do vào năm 1841, khi Thiệu Trị lên ngôi vì kỵ húy tên mẹ ông là bà Hồ Thị Hoa, mọi tên Hoa đều bị đổi lại thành Ba (như chợ Đông Hoa, cửa Đông Hoa bị đổi thành chợ Đông Ba, cửa Đông Ba - Huế). Nhưng từ Ba Thử đổi thành Phong Thử vào thời Bảo Đại là không đúng vì trước thời Bảo Đại người ta vẫn dùng chữ Phong Thử. Năm 1906, Phan Thúc Duyện đặt tên cho hợp thương và ngôi trường Duy tân ở đây là Diên Phong, do sự kết hợp giữa chữ Diên (huyện Diên Phước) với chữ Phong (làng Phong Thử). Trước đó, bài vè Khâm sai cũng cho biết quân triều Đồng Khánh bị quân Nghĩa hội đánh tơi bời tại Phong Thử. Các Châu bản triều Duy Tân nói về các nhân vật tham gia cuộc dân biến 1908 đều dùng tên Phong Thử.

Dưới thời các chúa Nguyễn, có hai địa danh Hoa Thử là làng Hoa Thử và thôn Hoa Thử cây Châm, cũng đều thuộc tổng An Sơn, huyện An Nông. Phong Thử là làng lớn của Điện Bàn. Sách Địa bạ triều Gia Long (1812) cho biết: “Hoa Thử  thuộc tổng Đa Hòa huyện An Nông. Đông giáp xã Kỳ Lam, xã Bi Nhai (tổng An Nhơn Trung), xã Nông Sơn, xã Thủy Bồ (tổng An Thái Thượng), xã Châu Lâu, thôn Hoa Thử cây Châm, lấy bờ ruộng làm mốc. Bắc giáp châu Thúy La (thuộc Phú Châu).

Thời kỳ 1954 - 1975, Phong Thử thuộc xã Kỳ Châu, quận Điện Bàn. Sau 1975 đến nay là thôn Phong Thử, xã Điện Thọ, thuộc huyện rồi thị xã Điện Bàn.

Ngôi làng từ “Duy tân” đến “hậu Duy tân”

Phong Thử là làng Duy tân hàng đầu của Quảng Nam. Sở dĩ như vậy vì đây là quê của Phan Thúc Duyện, nhà Duy tân thực hành hàng đầu của phong trào.

Tại Phong Thử, vào đầu năm 1906, Phan Thúc Duyện đã thành lập Hợp thương Diên Phong và Nghĩa thục Diên Phong. Về Hợp thương Diên Phong: “Ở gần sông Bàu Lớn, thuộc làng Phong Thử. Cơ sở gồm một nhà lầu rất bề thế, một nhà ngang dài và hai nhà nhỏ nấu cơm, ăn cơm và ngủ… Tại nhà lầu, có một phòng tiếp khách, chỗ làm việc, chỗ chứa hàng hóa. Hàng gồm những thổ sản thường buôn trong tỉnh do những ghe bầu vượt biển đi buôn các tỉnh khác hay mang xuống cho thương cuộc Hội An bán, có dụng ý tranh thương với người Trung Hoa. Những vải, sợi, đường, heo, dầu phụng, đậu… chất ngổn ngang đến bên ngoài, gợi cho người dân sự làm ăn phát đạt, tổ chức quy củ, có tương lai vững chắc… Số nhân viên làm việc ở đây lên đến 40 người. Con số đó nói lên sự buôn bán tấp nập đến đâu”. Vì vậy, Diên Phong “là đầu não cho các thương cuộc trong tỉnh… Cả nước chưa có thương hội nào lớn hơn”(1) quy mô và phạm vi hoạt động của hợp thương khiến nhiều người phải gọi là “quốc thương” vì buôn bán ra đến tận Hà Nội.

Còn Nghĩa thục Diên Phong “là ngôi trường lớn nhất tỉnh và thực sự duy tân vì không có liên hệ với chính quyền và vì thế gây tiếng vang rộng lớn hơn cả… “Diên Phong gồm hai trường: một ở ngay Hội thương phía sau ngôi nhà dài để buôn bán, tất cả đều mới cất bằng gạch ngói; ngôi thứ hai ở chùa (gần chợ Phong Thử cũ). Tổng số học sinh Ban I và Ban II cũng trên dưới 200 người. Ngoài việc giảng dạy trường vẫn thường tổ chức những buổi diễn thuyết có hội thảo để các bậc khoa cử tới dự”(2). Hai cơ sở này được Nguyễn Văn Xuân cho rằng chỉ có Công ty Liên Thành (Phan Thiết) và Đông Kinh nghĩa thục (Hà Nội), vốn là hai cơ sở tiếng tăm nhất của cả nước thời bấy giờ mới có thể sánh ngang.

Phong Thử cũng được xem là ngôi làng “hậu duy tân” duy nhất của cả tỉnh. Sau biến cố 1908, các lãnh tụ phong trào Duy tân, người thì lên máy chém, người thì vào tù, phần lớn còn lại đều “đoàn viên” với nhau giữa “rừng xanh Lao Bảo” và  “sóng nước Côn Lôn”. Các cơ sở Duy tân ngày cũ không còn “hội buôn, trường học, bóng tan bọt chìm”. May mắn cho Phong Thử, sau 11 năm bị lưu đày ở Côn Đảo và 11 năm bị quản thúc ở Quảng Bình, năm 1930 người con ưu tú của Phong Thử - Phan Thúc Duyện đã trở về và vận động dân làng thực hiện cuộc duy tân lần thứ hai.

Năm 1937, sân vận động của làng với diện tích gần 10.000m2 được xây dựng làm nơi tập luyện, vui chơi, sinh hoạt và học tập cho học sinh và dân làng.

Bằng phương thức “đổi đất lấy cơ sở hạ tầng”, chợ Phong Thử và nhà hát Phong Thử cũng lần lượt được xây dựng vào thời kỳ 1940 - 1942. Chợ Phong Thử ngày đó là ngôi chợ khang trang, bề thế và nhộn nhịp thuộc loại hàng đầu của tỉnh. Trường hát có diện tích trên 100m2, có sức chứa hơn 400 người. Đối diện với sân khấu cũng có một gác lửng có sức chứa khoảng 40 người, giống những nhà hát hiện đại ngày nay. Ngày đó khánh thành một ngôi chợ quê mà có cả Tổng đốc và Công sứ về dự, cắt băng khánh thành. Bên cạnh sân vận động, chợ, nhà hát…, đường sá trong làng cũng được mở rộng nối với phía tây và về phía đông. Sông Bến Hục cũng được khơi rộng để dễ dàng khai thác tuyến đường sông Thu Bồn và Vĩnh Điện nối với Hội An và Đà Nẵng. Làng xã được quy hoạch lại theo mô hình thị tứ.

Ngôi làng hậu Duy tân vào những năm đầu của thập niên 1940 được mô tả: “Có thể nói ở làng quê Quảng Nam lúc bấy giờ chưa có nơi nào mà nhịp độ sinh hoạt nhộn nhịp như ở đây, một thị trấn nhỏ trong vùng quê Điện Bàn. Ban ngày thì xe hơi, xe lửa qua lại, ghe thuyền đua nhau cập bến, chợ người đông mua bán ồn ào, học sinh cắp sách đến trường, chiều về trẻ em người lớn đá banh, đêm đến người đi xem hát, ăn uống đến tận khuya” (Võ Đạt, sđd, trang 60).

________________
(1), (2): Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy tân, Nxb Đà Nẵng, 1996.

LÊ THÍ

Ngày trước, làng Bảo An (Điện Bàn) là ngôi làng “trí thức”, ngôi làng của những nghề truyền thống nổi tiếng và từ rất sớm mang dáng dấp của một “nông thôn mới” thật sự.

Đình làng Bảo An. Ảnh: LÊ THÍ
Đình làng Bảo An. Ảnh: LÊ THÍ

Ngôi làng gần 550 năm tuổi

Làng Bảo An nằm ở trung tâm vùng Gò Nổi, nay là thôn Bảo An Đông và Bảo An Tây xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn. Theo một số tài liệu thì làng được thành lập từ giữa thế kỷ thứ XV, do tổ tiên của 3 tộc họ chính là Nguyễn, Phan, Ngô, sau đó có thêm  Phạm và Thái, vốn có quê gốc ở huyện Nghi Xuân, Thừa tuyên Nghệ An, theo vua Lê Thánh Tông đi bình Chiêm vào năm 1471, sau đó được phân công ở lại khai phá vùng đất mới.

Lúc đầu các tộc họ chính đến khai khẩn ở vùng Hòa Đa, nằm phía bắc sông Thu Bồn, sau mới vượt sông đến khai phá vùng Bảo An này. Từ khi thành lập đến nay làng đã trải qua nhiều tên. Đầu tiên làng có tên là Phi Phú (có lẽ đây là làng Thi Phụ trong Ô châu cận lục?). Sau đổi thành làng Phú An, Phú An Đông, Phú An Tây (dưới thời chúa Nguyễn), Tây Nhị xã (dưới thời Tây Sơn). Sang thời nhà Nguyễn, theo Địa bạ triều Gia Long soạn năm 1812, làng có tên Bảo Đông, Bảo Tây nhị xã. Sau Cách mạng tháng Tám, làng mang tên danh nhân Hoàng Diệu. Sau năm 1954, Bảo An thuộc xã Phú Tân. Từ đó đến nay Bảo An thuộc xã Điện Quang (gián đoạn thời kỳ 1954 - 1975).

Nằm ở vị trí đặc biệt, kẹp giữa hai nhánh của sông Thu Bồn, làng Bảo An có đất đai màu mỡ, phong cảnh hữu tình. Ngày trước dân gian thường truyền tụng câu ca dao: “Cây da mô cao bằng cây da Bàn Lãnh. Đất mô thanh cảnh bằng đất Bảo An”.

Bảo An cũng là làng văn vật hàng đầu của Quảng Nam. Dưới thời nhà Nguyễn, làng có 2 phó bảng, 16 cử nhân, 27 tú tài (chiếm 17% số trung đại khoa của toàn huyện). Đây cũng là quê hương các danh nhân: Phan Khôi, Nguyễn Bá Trác, Phan Thành Tài, Lương Khắc Ninh, Xuân Tâm, Nguyễn Đình, Phan Thanh, Phan Bôi… Đình làng Bảo An được xây dựng năm 1702, nhiều lần bị phá hoại và xây lại. Đình được công nhận là Di tích văn hóa lịch sử cấp tỉnh năm 2013.

Làng nghề truyền thống nổi tiếng một thời

Bảo An là một trong những làng nghề truyền thống nổi tiếng của xứ Quảng trước đây. Trên các bãi bồi ven sông, dân làng trồng mía và dâu nên nghề mía đường và dệt ở Bảo An ra đời rất sớm. Nghề nấu rượu xuất hiện lại là hệ quả của nghề  đường mía.

Về nghề đường mía, có người cho là ra đời ở Bảo An vào năm 1680, khi những người Hoa đầu tiên thuộc tộc Lương đến sinh sống tại đây để sản xuất và buôn bán đường. Nhưng có lẽ nghề làm đường ra đời sớm hơn. Người Hoa chỉ đến định cư nơi nào có tiềm năng về buôn bán. Như vậy chính nghề làm đường đã kéo tổ tiên tộc Lương đến Bảo An để buôn bán chứ không phải để sản xuất đường. Từ rất sớm người Bảo An đã sản xuất rất nhiều loại đường chất lượng cao như đường bát, đường muỗng, đường cát…, xuất đi nhiều nơi trong nước và thế giới, được người phương Tây khen ngợi: “Họ sản xuất được những loại đường trắng, xốp và ngọt lịm, còn ngon hơn là đường của chúng ta”. Bến sông ở làng Bảo An được gọi tên bến Đường là một minh chứng cho nghề sản xuất và buôn bán đường. Phan Khôi cũng cho biết, bà cố của ông nhờ việc buôn bán đường với Hội An mà trở nên giàu có, nuôi con ăn học đến nơi đến chốn, thi cử đỗ đạt. Vua Gia Long, Minh Mạng cho đào sông Vĩnh Điện có một phần liên quan đến việc buôn bán đường với Bảo An.

Nghề dệt ở Bảo An ra đời trễ hơn nhưng cũng rất nổi tiếng, cùng với các làng Mã Châu, Thi Lai, Đông Yên… sản xuất ra thứ vải lụa mà Lê Quý Đôn đã viết trong Phủ biên tạp lục: “Tổ xa đời của họ Nguyễn là người dinh Quảng Nam học dệt của người bắc khách, đời truyền nghề cho nhau. Các mặt hàng vóc, sa, lãnh, gấm, trừu cải hoa rất khéo…”, “người phủ Thăng, phủ Điện dệt được các thứ the đoạn, lụa là, hoa hòe chẳng kém gì hàng Quảng Đông”. Sau này sản phẩm dệt của Bảo An đã góp phần cho những hoạt động sôi nổi của Phong trào Duy tân vào đầu thế kỷ XX. Theo Nguyễn Văn Xuân, vào ngày đó nghề dệt của Bảo An đã đạt trình độ kỹ thuật cao: “Tiếng đồn con gái Bảo An/ Sáng mua vải sợi, tối đan mành mành”. Trước Cách mạng tháng Tám, Bảo An không những là nơi sản xuất nhiều vải vóc lụa là mà còn là nơi thu mua các sản phẩm từ nghề dệt để đưa đi bán ở nhiều nơi trên cả nước và sang tận Nông Pênh, Hồng Kông. “Mỗi buổi sáng, trong Đình Thị - gian chính trong chợ Bảo An - là nơi diễn ra việc mua bán vải cây. Vải cây tức là loại vải ta khổ hẹp do các gia đình dệt ra, cuốn lại thành cây… Người ta mua loại vải này chở đi tiêu thụ các nơi như Huế, Quảng Ngãi, Tam Kỳ, Sài Gòn… Họ mua suốt từ sáng đến khoảng 10 giờ là chất cả đống mang về nhà hôm sau tiếp tục vận chuyển đi bán” (Phan Thị Miều - Nhớ và ghi lại việc buôn bán ở làng Bảo An xưa).

Về nghề làm rượu, nhờ có nhiều đường, mật, người Bảo An sớm biết nghề nấu rượu. Họ dùng phụ phẩm của nghề đường là mật mía cùng với gạo, nếp làm nguyên liệu nấu với loại men đặc biệt được chế biến bằng thuốc bắc. Họ lại dùng các dụng cụ bằng gốm tốt để chưng cất và đựng rượu. Vì vậy, rượu Bảo An thơm ngon có tiếng từ xưa. Với sự nổi tiếng của nghề sản xuất rượu của làng Bảo An, gần đây có người đã đặt vấn đề phải chăng rượu Hồng Đào - thứ rượu “chưa nhấm đà say” nức tiếng của Quảng Nam - chính là loại rượu của Bảo An ngày trước. Nếu thật như vậy thì quá thú vị!

Mầm mống của “đô thị hóa”

Bảo An là ngôi làng “trí thức”, hoạt động kinh tế chính của làng lại là công nghiệp và thương mại, có mối giao lưu buôn bán mật thiết với cả Hội An bằng sông Thu Bồn lẫn Đà Nẵng thông qua sông Vĩnh Điện, nên đời sống của người dân khá giả. Vì vậy, ngày trước nếp sống ở Bảo An mang dáng dấp của đô thị: “Nhìn vào bản đồ của làng Bảo An (vẽ năm 1934) ta thấy khác hẳn những làng tự phát thuần nông ở miền Trung, bởi cách kiến thiết như có một bàn tay quy hoạch tài ba, có tầm nhìn với những đường lớn, đường nhỏ ngang dọc thật vuông vắn, quy củ hài hòa, vườn tược được hoạch định có phép tắc… không khác thành phố. Bảo An đã sớm bộc lộ tiềm năng tiến tới tương lai đô thị” (Đà Linh, Báo Văn Nghệ số ngày 2.11.2002). Hay: “Những năm từ 1937, 1938 đến 1944, con gái Bảo An đã nhiễm cách ăn mặc, trang điểm của phụ nữ thành thị Đà Nẵng, Hội An. Đàn bà đi chợ thường mặc áo dài, có chị đã kín đáo dùng chút son phấn …” (Phan Thị Miều - Nhớ và ghi lại việc buôn bán ở làng Bảo An xưa).       

Ngày nay làng Bảo An vẫn giữ được truyền thống nhưng có lẽ không còn giữ được vị trí của một thời “hoàng kim” như trước.

LÊ THÍ

TIN MỚI NHẤT

THỐNG KÊ TRUY CẬP

Số lượt truy cập:
018392445
Hôm nay
Hôm qua
6422
7635